Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.



 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 Danh nhân

Go down 
Tác giảThông điệp
artemis!
::Tiên linh thần đảo::
::Tiên linh thần đảo::
artemis!


Tổng số bài gửi : 276
Join date : 27/01/2008
Age : 30

Danh nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Fidel Castro   Danh nhân Icon_minitimeSat Mar 01, 2008 5:50 pm

Fidel Castro lên làm chủ tịch nước. Ông hứa sẽ xây dựng một chính quyền trong sạch và tôn trọng hiến pháp Cuba. Tuy nhiên, Castro đã xử tử hàng ngàn người thuộc Đảng Batista.

Hoa Kỳ ban đầu công nhận chính quyền Fidel Castro, nhưng sau khi Castro quốc hữu hóa các công ty Hoa Kỳ tại Cuba thì quan hệ Hoa Kỳ – Cuba trở nên lạnh nhạt. Chính sách kinh tế của Castro làm cho Hoa Kỳ nghi ngờ rằng Castro theo chủ nghĩa cộng sản và có quan hệ với Liên Xô – đối địch với Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh. Tháng 4 năm 1959 Castro viếng Nhà Trắng nhưng tổng thống Dwight Eisenhower từ chối gặp, thay vào đó là phó tổng thống Richard Nixon. Sau cuộc gặp gỡ này, Nixon cho rằng Castro là một người "ngây thơ" nhưng không nhất thiết là cộng sản.

Tháng 2 năm 1960, chính quyền của Castro ký một hiệp thương với Liên Xô (nay là Nga), trong đó Liên Xô đồng ý bán dầu hỏa cho Cuba. Hoa Kỳ cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao và áp dụng chính sách cấm vận lên Cuba vào ngày 31 tháng 1 năm 1961. Cuba tiếp tục thắt chặt quan hệ với Liên Xô và ngày càng nhận nhiều viện trợ quân sự và kinh tế.

Ngày 17 tháng 4 năm 1961, Hoa Kỳ yểm trợ một đạo binh gồm 1400 người Cuba lưu vong đổ bộ lên vùng Vịnh Con Heo (tiếng Anh: Bay of Pigs) nhằm mục đích lật đổ Fidel Castro. Cuộc đổ bộ thất bại và nhiều người bị bắt, chín người bị xử tử. Cũng trong năm đó, ngày 2 tháng 12, Castro tuyên bố rằng ông theo chủ nghĩa Marx-Lenin, và Cuba sẽ đi theo chủ nghĩa cộng sản.

Ngày 28 tháng 3 năm 1980, một chiếc xe buýt tông sập cổng tòa đại sứ Peru ở thủ đô Havana. Trong vòng 48 tiếng, hơn 10.000 người Cuba đã nhân cơ hội tràn vào tòa đại sứ xin tị nạn chính trị. Ngày 10 tháng 4 năm 1980, Castro tuyên bố cho mọi người được tự do rời Cuba qua cảng Mariel ở Havana. Khoảng hơn 125 nghìn người dân Cuba xuống tàu ra đi, trên một cuộc hành trình được mệnh danh là "Đoàn Tàu Tự Do" hay là [[cuộc di tản Mariel], đa số đến Florida, Hoa Kỳ.

Chính quyền Castro áp dụng chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa, quốc hữu hóa các ngành công nghiệp và hợp tác hóa nông nghiệp. Chính sách này làm cho giới trung lưu bất mãn, kể cả những người trước kia ủng hộ kháng chiến. Nhiều người trong số này trốn sang Hoa Kỳ và lập ra những tổ chức chống Fidel Castro tại Florida.

Hiện nay có nhiều lời đồn đãi về sức khỏe của Castro. Tháng 1 năm 2004, Luis Eduardo Garzón, thị trưởng của Bogotá – thủ đô của Columbia – sau cuộc gặp gỡ với Castro nói rằng ông ta "trông có vẻ rất ốm yếu". Tháng 5 năm 2004, bác sĩ của Castro bác bỏ các tin đồn cho rằng sức khỏe Castro đang xuống dốc. Ông tuyên bố rằng Castro sẽ sống đến 140 tuổi.

Ngày 20 tháng 10 năm 2004, Castro bị vấp té sau khi đọc diễn văn trước một cuộc mít tinh. Cú ngã này làm ông bị vỡ xương tay và đầu gối. Ông ta phải trải qua ba giờ giải phẫu. Sau đó Castro viết một lá thư để đăng lên báo, đài. Trong thư ông cam đoan với công chúng rằng mình vẫn khỏe và sẽ "không mất liên lạc với quí vị".


[sửa] Những câu nói nổi tiếng
Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình !
Khi Trung Quốc đánh Việt Nam : Nếu cần thì Cuba sẽ điều tàu chiến sang giúp !

[sửa] Đời sống riêng
Ông từng có một mối tình lãng mạn với một phụ nữ Cuba trong thời gian hoạt động Cách mạng chống chế độ độc tài Batista (bà đã có chồng và một con gái). Sau này, ông lấy vợ và có một con trai nhưng hiện nay đã ly hôn, bà hiện đang sống cùng người chồng mới tại Tây Ban Nha. Gần đây, khi biết tin ông bị bênh phải nằm viện, bà cũng đã về thăm ông, còn người con trai của họ thì đang du học ở ngước ngoài theo một Chương trình Đào tạo Cán bộ cấp cao của Nhà nước Cuba. Ngoài ra Fidel còn có 4 vợ không chính thức với 8 đứa con [cần dẫn chứng]. Tuy nhiên, ông ta không thừa nhận các quan hệ gia đình này một cách chính thức
Về Đầu Trang Go down
artemis!
::Tiên linh thần đảo::
::Tiên linh thần đảo::
artemis!


Tổng số bài gửi : 276
Join date : 27/01/2008
Age : 30

Danh nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Danh nhân   Danh nhân Icon_minitimeSat Mar 01, 2008 6:04 pm

Hồ Chí Minh (chữ Hán: 胡志明; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) là một nhà cách mạng, một người đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Hồ Chí Minh là một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, dẫn đến việc thống nhất nước Việt Nam. Ông là Chủ tịch nước của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian 1945-1969.
Tiểu sửGia đình và quê quán
Theo gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng Kim Liên tại Nam Đàn, Nghệ An thì
"Hoàng sơ tổ khảo là Nguyễn Bá Phụ, tổ đời thứ hai là Nguyễn Bá Bạc, tổ đời thứ ba là Nguyễn Bá Ban, tổ đời thứ tư là Nguyễn Văn Dân,... tổ đời thứ năm, Nguyễn Sinh Vật là giám sinh đời Lê Thánh Đức (tức Lê Thần Tông) năm thứ ba..., tổ đời thứ sáu là Nguyễn Sinh Tài đỗ hiếu sinh khi 17 tuổi, năm 34 tuổi đỗ tam trường khoa thi Hội..., tổ đời thứ 10 là Nguyễn Sinh Nhậm[1])." Cả bốn đời đầu tiên của dòng họ đều chưa lấy đệm là "Sinh" và không rõ năm sinh, năm mất[2].
Ông tên thật là Nguyễn Sinh Cung (阮生恭, giọng địa phương phát âm là Côông), tự là Tất Thành. Quê nội là làng Kim Liên (tên nôm là làng Sen). Ông được sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (tên nôm là làng Chùa, nằm cách làng Sen khoảng 2 km) và sống ở đây cho đến năm 1895. Hai làng này vốn cùng nằm trong xã Chung Cự, thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn. Quê nội của ông, làng Kim Liên[3] là một làng quê nghèo khó. Phần lớn dân chúng không có ruộng, phải làm thuê cấy rẽ, mặc quần ít, đóng khố nhiều, bởi thế nên làng này còn có tên là làng Đai Khố[4]. Vào đời ông, phần lớn dòng họ của ông đều cơ hàn, kiếm sống bằng nghề làm thuê, và cũng có người tham gia các hoạt động chống Pháp[5]
Thân phụ ông là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó bảng[6]. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan. Ông có một người chị là Nguyễn Thị Thanh, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (tự Tất Đạt, còn gọi là Cả Khiêm) và một người em trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (1900-1901, tên khi mới lọt lòng là Xin)Theo lý lịch chính thức, Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, tuy nhiên có những thông tin khác không đồng nhất
Trong đơn xin học Trường hành chính thuộc địa, năm 1911, ông tự ghi là sinh năm 1892.
Năm 1920, ông khai với một quận cảnh sát tại Paris ngày sinh của mình là 15 tháng 1 năm 1894.
Theo một tài liệu do Phòng nhì Pháp lập năm 1931, có sự xác nhận của một số nhân chứng làng Kim Liên, quê nội của ông, thì ông sinh tháng 4 năm 1894.
Trong tờ khai của ông tại Đại sứ quán Liên Xô ở Berlin, vào tháng 6 năm 1923, thì ngày sinh là 15 tháng 2 năm 1895.
tuổi trẻ
Trường Dục ThanhNăm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên. Sau khi mẹ mất (1901), ông về Nghệ An ở với bà ngoại một thời gian ngắn rồi theo cha về quê nội, từ đây ông bắt đầu dùng tên Nguyễn Tất Thành. Tất Thành theo học cử nhân Hoàng Phạm Quỳnh và một số ông giáo khác. [7].
Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba. Tháng 9 năm 1907, ông vào học tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ[8]. Cha ông bị triều đình khiển trách vì "hành vi của hai con trai". Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Ông quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình.
Đầu năm 1910, Nguyễn Tất Thành vào đến Phan Thiết. Ông dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của hội Liên Thành[9][10]. Khoảng trước tháng 2 năm 1911, ông nghỉ dạy và vào Sài Gòn. Tại đây, ông theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son. Ở đây, ông được nuôi ăn nhưng chỉ học 3 tháng thì bỏ khi nhận ra rằng phải học 3 năm mới thành nghề.[11] Ông quyết định sẽ tìm một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài.
Hoạt động ở nước ngoài
Xem chi tiết tại Hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1911-1941
Thời kì 1911-1919
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912-cuối 1913), ông quay trở lại nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn. Cuối năm 1917, ông trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.hời kì ở Pháp
Tấm biển đồng gắn tại nhà số 9 ngõ Compoint, quận 17 Paris: "Tại đây, từ năm 1921-1923, Nguyễn Ái Quốc đã sống và chiến đấu vì quyền độc lập và tự do cho nhân dân Việt Nam và các dân tộc bị áp bức"Ngày 19 tháng 6 năm 1919, nhân danh một nhóm người Việt Nam yêu nước, ông đã viết "Yêu sách của nhân dân An Nam" gồm tám điểm được viết bằng tiếng Pháp (Revendications du peuple annamite), ký tên Nguyễn Ái Quốc và gửi tới Hội nghị Hòa bình Versailles. Từ đó ông dùng tên Nguyễn Ái Quốc.
ranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria, đời sống người dân dưới ách thống trị của thực dân PhápNăm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, từ đó ông đi theo chủ nghĩa cộng sản. Ông tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, ông trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã hội. Năm 1921, ông cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale - Association des indigènes de toutes les colonies) nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc. Năm 1922, ông cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người cùng khổ), làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" bằng tiếng Pháp (Procès de la colonisation française) do Nguyễn Ái Quốc viết được xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
Thời kì ở Liên Xô lần thứ nhất
Nguyễn Ái Quốc, chụp tại Liên Xô năm 1923Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Phương Đông. Tại đây ông đã dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923), ông được bầu vào Ban chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 Quốc tế Cộng sản (họp từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924), ông được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
Thời kì ở Trung Quốc (1924-1927)
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân quốc, do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn
Năm 1925, ông thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) để truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin (thường được phiên âm là Mác–Lê-nin) vào Việt Nam. Cuốn Đường Kách mệnh, mà ông là tác giả, tập hợp các bài giảng tại các lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được xuất bản năm 1927.

Trong thời gian ở Quảng Châu, ông đã kết hôn với một hộ lý Trung Quốc tên là Tăng Tuyết Minh, đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc (ngày 18 tháng 10 năm 1926) và sống với nhau cho đến khi ông rời Quảng Châu, vào khoảng tháng 4 hoặc 5 năm 1927. Sau khi ông đã trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cả hai người đã tìm nhau thông qua tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc và cơ quan ngoại giao Việt Nam tại Trung Quốc nhưng không thành công[12][13] . (Xem thêm bài Tăng Tuyết Minh)

Cùng năm 1925, ông tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và ông làm bí thư. Do Tưởng Giới Thạch khủng bố các nhà cách mạng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam, ông rời Quảng Châu đi Hương Cảng, rồi sang Liên Xô. Tháng 11 năm 1927, ông được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống đế quốc từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tại Bruxelles, Bỉ.
Những năm 1928, 1929
Mùa thu 1928, ông từ châu Âu đến Thái Lan, với bí danh Thầu Chín để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều.
Cuối năm 1929, ông rời Thái Lan sang Trung Quốc.
Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (九龍, Kowloon) thuộc Hương Cảng, ông thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đó đổi tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương", rồi đổi thành "Đảng Lao Động Việt Nam" và nay là "Đảng Cộng sản Việt Nam").
Tháng 3 năm 1930, ông trở lại Thái Lan trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại Trung Hoa.
Những năm 1931 - 1933
Năm 1931, dưới tên giả là Tống Văn Sơ (Sung Man Ch'o), Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam với ý định trao cho chính quyền Pháp ở Đông Dương. Nhờ sự biện hộ và giúp đỡ tận tình của luật sư Frank Loseby[14], Tống Văn Sơ được thả ngày 28 tháng 12 năm 1932. Ông đi Thượng Hải rồi bí mật quay trở lại Liên Xô.
Thời kì ở Liên Xô lần thứ hai
Ông đến Moskva vào mùa xuân năm 1934. Với bí danh Lin, Nguyễn Ái Quốc học ở Trường Quốc tế Lenin (1934-1935). Ông dự Đại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản (từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1935) với vai trò quan sát viên của ban thư ký Dalburo với tên Linov[15]. Theo tài liệu của một số nhà sử học, ông bị buộc ở Liên Xô cho đến năm 1938 và bị giam lỏng ở đó do bị nghi ngờ về lý do ông được nhà cầm quyền Hương Cảng trả tự do[16]. Trong những năm 1931-1935, ông đã bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải lương "liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ", không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Quốc tế Cộng sản[17][18].
Từ năm 1938 đến đầu năm 1941
Năm 1938, ông trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Quốc mùa đông 1938.
Trở về Việt Nam
Ông trở về Việt Nam vào ngày 28 tháng 1 năm 1941[19], ở tại hang Cốc Bó, bản Pác Bó, tỉnh Cao Bằng với bí danh Già Thu. Tại đây, ông mở các lớp huấn luyện cán bộ[20], cho in báo, tham gia các hoạt động thường ngày... Tài liệu huấn luyện và tuyên truyền chủ yếu là sách do ông dịch và viết về nhiều chủ đề. Tại cuối một cuốn sách như vậy ông ghi "Việt Nam độc lập năm 1945"[21]. Ông cho lập nhiều hội đoàn nhân dân như hội phụ nữ cứu quốc, hội phị lão cứu quốc, hội nông dân cứu quốc...
Tháng 5 năm 1941, hội nghị mở rộng lần thứ 8 của Trung ương Đảng họp ở Cao Bằng và quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (Việt Minh). Ông là chủ tọa.
Giai đoạn từ khi bị giam ở Trung Quốc cho tới ngày 2-9-1945
Ngày 13 tháng 8 năm 1942, ông lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam (một hội đoàn được ông tổ chức ra trước đó) để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc. Đây là lần đầu tiên trong các giấy tờ cá nhân ông sử dụng tên Hồ Chí Minh, tuy vậy ông lại khai nhân thân là "Việt Nam-Hoa kiều"[22].
Về Đầu Trang Go down
artemis!
::Tiên linh thần đảo::
::Tiên linh thần đảo::
artemis!


Tổng số bài gửi : 276
Join date : 27/01/2008
Age : 30

Danh nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Danh nhân   Danh nhân Icon_minitimeSat Mar 01, 2008 6:07 pm

Ông bị chính quyền địa phương của Trung Hoa Dân quốc bắt ngày 29 tháng 8 khi đang đi cùng một người Trung Quốc dẫn đường và giam hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù. Ông viết Nhật ký trong tù trong thời gian này (từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943). Các đồng chí của ông (Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh...) ở Việt Nam tưởng lầm là ông đã chết (sau này nguyên nhân được làm rõ là do một cán bộ Cộng sản tên Cáp nghe và hiểu sai ngữ nghĩa)[23]. Họ thậm chí đã tổ chức đám tang và đọc điếu văn cho ông (Phạm Văn Đồng làm văn điếu) cũng như "mở chiếc va-li mây của Bác ra tìm xem còn những gì có thể giữ lại làm kỉ niệm" (lời của Võ Nguyên Giáp). Vài tháng sau họ mới biết được tình hình thực của ông sau khi nhận được thư do ông viết và bí mật nhờ chuyển về.
Sau khi được trả tự do ngày 10 tháng 9 năm 1943, Hồ Chí Minh tham gia Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Từ trước đó, Việt Minh cũng đã ra tuyên bố ủng hộ Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Ông cũng cố gắng tranh thủ Trương Phát Khuê, tướng cai quản vùng Quảng Đông và Quảng Tây của Quốc Dân Đảng, nhưng kết quả là hạn chế.
Cuối tháng 9 năm 1944, ông trở về Việt Nam. Khi này các đồng chí của ông ở Liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng... đã quyết định tiến hành phát động chiến tranh du kích trong phạm vi liên tỉnh. Ông ngăn chặn thành công quyết định nàyThay vào đó, ông ra lệnh tổ chức lập lực lượng vũ trang và căn cứ địa cho chặt chẽ và hiệu quả hơn. Ông trực tiếp ra chỉ thị thành lập một đội quân mang tính chính thống và chính quy là đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, với 34 đội viên là các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng hoặc thành viên của các đội quân nhỏ bé và rải rác trước đó của Việt Minh. Cuối năm 1944, ông lại trở lại Côn Minh hoạt động cho tới đầu năm 1945.
Ngay trước khi Hội nghị Tân Trào họp vào tháng 8 năm 1945, ông ốm suýt chết[
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Giai đoạn lãnh đạo
Từ Độc lập tới Toàn quốc kháng chiến
Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tại Paris, 1946Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 trên quảng trường Ba Đình tại Hà Nội, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và bản Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp để mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam
Ông gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới kêu gọi công nhận nhà nước Việt Nam mới được thành lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận được hồi âm (Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman[28], Stalin, Tổng thống Pháp Léon Blum, bộ trưởng Thuộc địa Pháp Marius Moutet và Nghị viện Pháp...).

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, Pháp tấn công Sài Gòn. Quân dân Sài Gòn cấp tập chống cự. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập với Trần văn Giàu là chủ tịch. Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ điện ra Trung ương xin cho được đánh. Chính phủ ra huấn lệnh, bản thân ông gửi thư khen ngợi "lòng kiên cường ái quốc của đồng bào Nam Bộ"[cần chú thích].

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, tổng tuyển cử tự do trong cả nước được tổ chức, bầu ra Quốc hội và Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I của Việt Nam đã cử ra Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đại biểu quốc hội chủ yếu là nhân sĩ trí thức, người ngoài Đảng. Ông trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và với chức danh Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông cũng đảm nhiệm luôn công việc của thủ tướng. Chính phủ này, cho tới cuối năm 1946, đã trải qua 3 lần thay đổi cơ cấu và nhân sự vào các thời điểm: ngày 1 tháng 1; tháng 3; và ngày 3 tháng 11.

Nhà nước và chính phủ của ông đối mặt với hàng loạt khó khăn cả về đối nội và đối ngoại. Về đối ngoại, khi này Việt Nam chưa được bất cứ quốc qia nào công nhận [29], không phải thành viên Liên hiệp quốc[30], cũng như không nhận được sự ủng hộ nào về vật chất của các nước cộng sản khác. Ngoài 20 vạn quân của Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc, còn có quân Anh và quân Pháp (vào thời điểm toàn quốc kháng chiến, tháng 12 năm 1946, Pháp có quãng 6 vạn quân), và khoảng 6 vạn quân Nhật. Về đối nội, "giặc đói, giặc dốt" - như chính cách ông gọi - và ngân quỹ trống rỗng là những vấn đề hệ trọng nhất[31][32].

Bởi thế ông thi hành một chính sách đối ngoại mềm dẻo và nhẫn nhịn. Ông nói "chính sách của ta hiện nay là chính sách Câu Tiễn, nhưng nhẫn nhục không phải là khuất phục"[33].

Với tập đoàn Tưởng Giới Thạch, ông chấp nhận sự hiện diện của Việt Cách, Việt Quốc trong các chính phủ liên tục được thay đổi, chấp nhận 70 ghế cho Việt Quốc, Việt Cách trong quốc hội không cần qua bầu cử. Ông cũng cung cấp gạo (ban đầu kiên quyết từ chối[34]) cho quân Tưởng. Quân Tưởng cũng được tiêu giấy bạc "kim quan" và "quốc tệ" tại miền Bắc. Trước đó, tháng 10 năm 1945, khi Hà Ứng Khâm, tổng tham mưu trưởng của quân đội Tưởng tới Hà Nội, hàng vạn người được huy động xuống đường, hô vang các khẩu hiệu "Ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh", "Ủng hộ chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" để "đón tiếp".
Tháng 11 năm 1945, ông quyết định cho Đảng tự giải tán. Về mặt công khai, đảng của ông không còn hiện diện mà chỉ có một bộ phận hoạt động dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương[35].
Ông kêu gọi các đảng viên nếu tự xét thấy mình không đủ phù hợp thì nên tự rút lui khỏi hàng ngũ lãnh đạo chính quyền[36]
Trước Quốc hội, ông tuyên bố: "Tôi chỉ có một Đảng - đảng Việt Nam"[37].
Theo Hiệp ước Pháp-Hoa, ký ngày 28 tháng 2 năm 1946, quân Pháp sẽ thay thế quân của Tưởng Giới Thạch. Một tuần sau, ngày 6 tháng 3 năm 1946, ông cùng Vũ Hồng Khanh ký với Jean Sainteny - Ủy viên Pháp ở miền bắc Ðông Dương - bản Hiệp định sơ bộ với Pháp, với 3 nội dung chủ chốt:
Pháp công nhận Việt Nam "là một nước tự do, là một phần tử trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp". Trước đó, đàm phán căng thẳng khi ông muốn Việt Nam được công nhận là quốc gia độc lập và phản đối kịch liệt khi Pháp muốn dùng chữ "Quốc gia Tự trị" để mô tả tổ quốc của ông.
Pháp được đưa 1,5 vạn quân ra Bắc thế cho quân Tưởng, nhưng phải rút trong 5 năm, mỗi năm rút 1 phần 5 quân số.
Ngừng xung đột, giữ nguyên quân đội tại vị trí cũ.
Ngày 31 tháng 5 năm 1946, ông lên đường sang Pháp theo lời mời của chính phủ nước này; cùng ngày, phái đoàn chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng khởi hành. Trước khi đi, ông bàn giao quyền lãnh đạo đất nước cho Huỳnh Thúc Kháng[38] với lời dặn "Dĩ bất biến, ứng vạn biến"[39]. Tại Việt Nam, ông dự đoán thời gian ở Pháp là "...có khi một tháng, có khi hơn"[40] nhưng cuối cùng ông ở Pháp 4 tháng (Hội nghị Fontainebleau diễn ra từ 6 tháng 7 tới 10 tháng 9 năm 1946) mà không tránh khỏi thất bại chung cuộc.
Ngày 14 tháng 9 năm 1946, ông ký với đại diện chính phủ Pháp, bộ trưởng Thuộc địa Marius Moutet, bản Tạm ước (Modus vivendi), quy định đình chỉ chiến sự tại miền Nam, và thời gian tiếp tục đàm phán vào đầu năm 1947.
Thế nhưng những nhân nhượng đó cũng không tránh nổi chiến tranh. Sau khi nhận được liên tiếp 3 tối hậu thư của Pháp trong vòng chưa đầy một ngày, ông kí lệnh kháng chiến. Tối ngày 19 tháng 12 năm 1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến do ông chấp bút được phát trên đài phát thanh. 20h tối cùng ngày, kháng chiến bùng nổ.
Giai đoạn kháng chiến chống Pháp
Tháng 3 năm 1947, ông và Trung ương Đảng chuyển lên Việt Bắc. Ông kêu gọi nhân dân tiêu thổ kháng chiến, tản cư cũng là kháng chiến, phá hoại (cho Pháp không lợi dụng được) cũng là kháng chiến.
Ngày 2 tháng 2 năm 1950, Hồ Chí Minh kí sắc lệnh tổng phản công trong năm 1950. Tuy vậy, sau đó nội dung của sắc lệnh này đã bị bác bỏ. Những lệch lạc trong công tác so sánh lực lượng hai bên tham chiến của phía Việt Nam cũng như sự chủ quan trong chỉ đạo đã bị kiểm điểm và uốn nắn.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2 được tổ chức vào trung tuần tháng 2 năm 1951 tại Tuyên Quang, ông quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai trở lại. Tuy nhiên, khi này tên gọi không còn là Đảng Cộng sản nữa mà có tên mới là Đảng Lao động Việt Nam. Ông tuyên bố:
"Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam."[41]
Hồ Chủ tịch đang tăng giaCuộc Chiến tranh Đông Dương kết thúc vào năm 1954, khi người Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ - sự kiện báo hiệu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế giới[42] - và dẫn đến Hiệp định Genève. Kết quả mà đoàn Việt Nam thu nhận được kém hơn nhiều so với mục tiêu đề ra ban đầu. Tuy vậy, trên các phương tiện truyền thông chính thức, Hồ Chí Minh tuyên bố "Ngoại giao đã thắng to![4
Về Đầu Trang Go down
artemis!
::Tiên linh thần đảo::
::Tiên linh thần đảo::
artemis!


Tổng số bài gửi : 276
Join date : 27/01/2008
Age : 30

Danh nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Danh nhân   Danh nhân Icon_minitimeSat Mar 01, 2008 6:09 pm

Cuộc cải cách ruộng đất, phát động vào cuối năm 1953 và kéo dài cho tới cuối năm 1957, đã phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, nhất là trong việc lạm dụng đấu tố và xử tử những người bị liệt vào thành phần địa chủ, phú nông thậm chí vu oan và giết nhầm cả những đảng viên trung kiên. Từ tháng 2 năm 1956, công cuộc sửa sai được khởi sự, phục hồi được khoảng 70-80% số người bị kết án, trả lại tài sản ruộng đất. Những nhân vật cốt cán của cải cách bị cách chức. Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm, ông khóc và nhận lỗi trước hội nghị toàn quốc.
Năm 1959, Hồ Chí Minh tới thăm Bắc Kinh nhân dịp kỷ niệm 10 năm cách mạng Trung Quốc. Trong những cuộc đàm phán riêng, ông nhận được sự hứa hẹn của cả Bắc Kinh lẫn Moskva để viện trợ thêm vũ khí và dân sự, nhưng đã khôn khéo từ chối những đề nghị gửi quân tình nguyện hay cố vấn quân sự đến Việt Nam[44].
Giai đoạn cuối đời
Hồ Chủ tịch thăm một đồi cây ở Phú Thọ, 1964Từ khoảng nửa đầu thập niên 1960, Hồ Chí Minh được coi như chỉ còn nắm giữ vai trò biểu tượng của cách mạng. Ông dành nhiều thời gian để đi thăm hỏi đồng bào. Quyền lực khi này dần dần tập trung về bí thư thứ nhất Lê Duẩn và một số nhân vật gần gũi trong Đảng Lao động Việt Nam[45][46], những người này đã chủ trương tích cực thúc đẩy quá trình thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở miền Nam. Theo lời ông Vũ Kỳ kể lại, Hồ Chí Minh chỉ biết sự kiện Tết Mậu Thân 1968 đã nổ ra khi nghe đài trong lúc đang dưỡng bệnh tại Trung Quốc.[47] Ông liên tục ốm nặng trong khoảng hơn 3 năm cuối đời.
Hồ Chí Minh bắt đầu viết di chúc vào dịp sinh nhật ông năm 1965, và sửa lại trong những dịp sinh nhật tiếp theo[48]
Trong di chúc, ông có viết "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".
Qua đời
Các thiếu nhi khóc trong lễ tang Bác Hồ năm 1969Hồ Chí Minh mất vào hồi 9 giờ 47 phút sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969, tức ngày 21 tháng 7 âm lịch[49], hưởng thọ 79 tuổi.
Hà Nội đã nhận được hơn 22.000 bức điện chia buồn từ 121 nước trên khắp thế giới[50]. Nhiều nước trong khối xã hội chủ nghĩa đã tự tổ chức truy điệu và đưa ra những lời ca ngợi ông. Một tuyên bố chính thức từ Moskva đã gọi Hồ Chí Minh là một "người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam anh hùng, nhà lãnh đạo xuất chúng của Cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, và một người bạn lớn của Liên bang Xô Viết". Từ các nước Thế giới thứ ba, người ta ca ngợi ông trong vai trò của người bảo vệ những con người bị áp bức. Một bài báo xuất bản ở Ấn Độ miêu tả ông là sự kết tinh của "nhân dân và hiện thân của khát vọng đấu tranh cho tự do và cho sự đấu tranh bền bỉ của nhân dân"[51]. Những bài báo khác đề cao phong cách giản dị và đạo đức cao của ông. Một bài xã luận trên một tờ báo của Uruguay viết: "Ông có một trái tim bao la như vũ trụ và tình yêu trẻ thơ vô bờ bến. Ông là hình mẫu của sự giản dị trong mọi mặt"[52].
Phản ứng từ các nước phương Tây dè dặt hơn. Nhà Trắng và các quan chức cấp cao của Mỹ từ chối bình luận. Báo chí phương Tây đặt sự chú ý cao đối với cái chết của Hồ Chí Minh. Các tờ báo ủng hộ phong trào phản chiến có xu hướng miêu tả ông như là một đối thủ xứng đáng và là người bảo vệ cho những con người bị áp bức. Ngay cả những tờ báo đã từng phản đối mạnh mẽ chính quyền Hà Nội cũng ghi nhận ông là người đã cống hiến cả cuộc đời cho công cuộc kiếm tìm độc lập và thống nhất đất nước Việt Nam của ông, đồng thời là tiếng nói nổi bật trong việc bảo vệ những dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới[53].
Tang lễ được tổ chức vào ngày 8 tháng 9 tại quảng trường Ba Đình với hơn 100.000 người đến dự, trong đó có các đoàn đại biểu từ các nước xã hội chủ nghĩa. Hàng ngàn người đã khóc. Điếu văn truy điệu ông do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc, có đoạn viết:
"Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa. Tổn thất này vô cùng lớn lao. Đau thương này thật là vô hạn ! Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch - Người anh hùng dân tộc vĩ đại. Và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta..."[54].
Trong bài thơ "Bác ơi" của Tố Hữu, sáng tác ngày 6 tháng 9 năm 1969, có đoạn:
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.[55]
Trong di chúc, ông muốn được hỏa táng và đặt tro tại ba miền đất nước[56][57]. Tuy nhiên, từ đó đến nay, thi hài ông được bảo quản ở Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội để mọi người có thể đến viếng, tương tự như đối với thi hài Lenin ở Moskva[58].
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Di sản
Tại Việt Nam, ông được xem là nhân vật chính trong công cuộc giải phóng dân tộc. Đối với nhiều người, ông là một nhà yêu nước đã vận dụng chủ nghĩa cộng sản vào công cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân và đế quốc. Tính giản dị và kiên cường của ông được nhiều người kính mến.
Nhiều người dân Việt Nam yêu quý ông, gọi ông bằng cái tên thân mật "Bác Hồ". Trong văn thơ, ông còn được gọi là "Người Cha già của dân tộc". Một số dân tộc thiểu số Việt Nam, như Vân Kiều, Pa Cô, Kor, đã lấy họ Hồ vì yêu quý ông[59].
Tưởng niệm
Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, phủ toàn quyền Đông Dương bên cạnh Quảng trường Ba Đình, nơi ông đã đọc Tuyên ngôn độc lập được chọn là nơi làm việc của Đảng, Nhà nước và đồng thời là nơi ở, nơi làm việc của Chủ tịch nước. Từ đó trở đi, nơi đây trở thành Khu di tích Phủ Chủ tịch. Khu này là nơi sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của ông - từ 19 tháng 12 năm 1954 đến 2 tháng 9 năm 1969 (đây cũng là khoảng thời gian ông có những đóng góp quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam). Khu di tích Phủ Chủ tịch hàng năm đón nhiều khách tham quan trong và ngoài nước.
Tượng Bác Hồ với thiếu nhi của Diệp Minh Châu tại TP. Hồ Chí MinhBảo tàng Hồ Chí Minh tại Hà Nội là khu tưởng niệm về Hồ Chí Minh lớn nhất Việt Nam. Tại các tỉnh thành phố khác cũng có các bảo tàng, nhà lưu niệm về ông, đặt tại những địa điểm ông đã từng sống và làm việc. Nổi bật nhất là bến Nhà Rồng tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi ông đã xuống tàu "Đô đốc Latouche Tréville" ra đi tìm đường cứu nước, và Nhà tưởng niệm xây dựng năm 1970 ở quê nội của ông. Tại các quốc gia khác cũng có các nhà lưu niệm về Hồ Chí Minh, chẳng hạn như ở Pháp. Ngoài ra còn có rất nhiều đài kỷ niệm và bia tưởng niệm. Tại Việt Nam, Hồ Chí Minh còn được thờ trong một số đền, chùa và gia đình. (Xem thêm Danh sách các công trình tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Việt Nam)
Nhằm tôn vinh ông, năm 1976, kỳ họp Quốc hội đầu tiên sau ngày Việt Nam được thống nhất đã thống nhất quyết định đổi tên thành phố Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh. Chiến dịch quân sự lịch sử xảy ra trên thành phố này, kết thúc Chiến tranh Việt Nam và mở đầu thời kỳ thống nhất của Việt Nam cũng mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Tên ông còn được đặt cho các giải thưởng và huân chương cao quý nhất của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: Huân chương Hồ Chí Minh là huân chương bậc cao thứ nhì của Nhà nước; Giải thưởng Hồ Chí Minh dành cho những cống hiến trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ. "Cháu ngoan Bác Hồ" là danh hiệu dành cho các thiếu nhi có thành tích cao trong học tập và hoạt động xã hội. Tên ông còn được đặt cho hai tổ chức chính của thanh thiếu niên Việt Nam: Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Các cái tên Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc hay Nguyễn Tất Thành còn được đặt cho nhiều công trình công cộng, như đường quốc lộ, quảng trường, đường phố, trường học.
Mọi tờ tiền giấy tại Việt Nam hiện nay đều in hình chủ tịch Hồ Chí MinhHình ảnh và tượng ông hiện diện tại nhiều nơi công cộng, cũng như trên tất cả các đồng tiền giấy đang lưu hành tại Việt Nam. Cùng với quốc kỳ, tượng bán thân hoặc hình ông được đặt tại nơi trang trọng nhất của mỗi cơ quan nhà nước và trường học tại Việt Nam.
Về Đầu Trang Go down
artemis!
::Tiên linh thần đảo::
::Tiên linh thần đảo::
artemis!


Tổng số bài gửi : 276
Join date : 27/01/2008
Age : 30

Danh nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Danh nhân   Danh nhân Icon_minitimeSat Mar 01, 2008 6:10 pm

Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới
Ông được xem là một danh nhân không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của thế giới. UNESCO đã tôn vinh ông là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa và khuyến nghị các nước thành viên tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông do "các đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật", và ông "đã dành cả cuộc đời mình cho sự giải phóng nhân dân Việt Nam, đóng góp cho cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của các dân tộc [trên thế giới]"[60]. Tuần báo TIME của Hoa Kỳ đánh giá Hồ Chí Minh là một trong 100 nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ 20.
Là một người lãnh đạo cuộc đấu tranh của Việt Nam giành độc lập khỏi chế độ thực dân Pháp, với chiến thắng quyết định ở trận Điện Biên Phủ, ông được người dân ở những nước thuộc địa trước đây của Pháp, chủ yếu ở Bắc Phi và Tây Phi, kính trọng, và được coi như tấm gương cho cuộc giải phóng tại đất nước họ. Tên ông đã được đặt cho các đại lộ tại Luanda (Angola), tại Ouagadougou (Burkina Faso) và tại Maputo (Mozambique). Nhiều nước trên thế giới đã phát hành tem bưu chính kỷ niệm ông: Liên Xô, Ấn Độ, Lào, Madagascar, Algérie, Cuba, Đông Đức, Triều Tiên, Quần đảo Marshall, Dominica...
Bộ tem đầu tiên của Việt Nam phát hành ngày 2 tháng 9 năm 1946

Một trong những con tem đầu tiên của Việt Nam (Tem giấy dó)

Một số mẫu tem bưu chính nước ngoài về Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh trên bìa Tuần báo Time năm 1954



Bàn cãi
Tuy thế, nay vẫn còn có nhiều bàn cãi về sự nghiệp của ông. Là một trong những người đưa chủ nghĩa cộng sản đến với Việt Nam, ông là một mục tiêu chống đối của những người theo chủ nghĩa chống cộng. Đối với những người chống cộng, ông là một kẻ tranh thủ thời cơ để giành chính quyền và tạo ra một chế độ cực quyền.
Đã có những ý kiến[cần dẫn chứng] cho rằng hình ảnh của ông đã được Đảng Cộng sản Việt Nam lạm dụng một cách quá đáng để duy trì chế độ cộng sản tại Việt Nam.

Thần tượng hóa
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh được ca ngợi như một người toàn đức toàn tài mà ai cũng cần noi theo. Nhiều khẩu hiệu được sử dụng khắp nơi, nhiều nhất là:
Đời đời nhớ ơn Bác Hồ vĩ đại
Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp chúng ta
Nhiều phát biểu, câu nói của Hồ Chí Minh được đăng tải trên các phương tiện truyền thông như là những câu danh ngôn, chân lý. Học sinh tiểu học thường học thuộc năm điều Bác Hồ dạy:
Yêu tổ quốc, yêu đồng bào
Học tập tốt, lao động tốt
Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt
Giữ gìn vệ sinh thật tốt
Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm
Không phải chỉ những người khác đã thần tượng hóa ông, chính bản thân ông cũng tự viết về mình trong vai người khác (các cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch và Vừa đi đường vừa kể chuyện [cần dẫn chứng]). Có quan điểm cho rằng các tác phẩm này có nội dung tự khen ngợi[cần dẫn chứng].
Các câu nói
Các câu nói nổi tiếng
Wikiquote sưu tập danh ngôn về:
Hồ Chí MinhTôi nói, đồng bào có nghe rõ không?[61]
Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành[62]
Tôi chỉ có một Đảng: Đảng Việt Nam.[63]
Không có gì quý hơn độc lập, tự do!
Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một; sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.
Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.[64]
Hình ảnh miền Nam luôn ở trong trái tim tôi.
Nhiệm vụ của thanh niên không phải là đòi hỏi Nước nhà đã cho mình những gì, mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho Nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi Nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích Nước nhà mà hy sinh phấn đấu đến chừng nào?[65]
Các câu nói khác
1945 - 1946
Sau 80 năm bị thực dân Pháp giày vò, nước Việt Nam ta cái gì cũng kém cỏi, chỉ có lòng sốt sắng của dân là rất cao. [66]
Bọn ấy sang thì chả tử tế gì đâu. Chúng sẽ ăn hại, báo hại, đưa phản động về phá ta, làm những điều chướng tai gai mắt.[67]
Các ông giết 10 người của chúng tôi, chúng tôi giết 1 người của ông, nhưng cuối cùng các ông sẽ là người kiệt sức[68]
Thập niên 1960
Chủ nghĩa Mác-Lênin Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lênin có lí có tình![69]
Tôi xin mời Johnson tới Hà Nội như là khách của chúng tôi. Ông hãy đến với vợ và con gái, người thư kí, người bác sĩ và người đầu bếp của mình. Nhưng đừng mang theo tướng lĩnh và đô đốc![70]
Mĩ phải cút đi! Chúng tôi trải thảm đỏ cũng được, nhưng Mĩ phải cút đi! Mĩ phải chấm dứt xâm lược. Johnson miệng nói hòa bình tay lại kí những lệnh điều động quân. Chúng tôi không bác bỏ gì hết, nhưng nhân dân chúng tôi phải được yên ổn. Chúng tôi không muốn trở thành người chiến thắng. Chúng tôi chỉ muốn Mĩ cút đi! Gút-bai!
Tôi nói với nhân dân Việt Nam rằng họ là con cháu tôi, vì vậy tôi sống rất bình yên và giản dị, tôi ngủ rất ngon, ngay cả khi có việc ném bom của các ông.
Tôi là người đa nghi và tôi có lí do để ngờ vực. Người Mĩ các ông ít nhiều đều là nhà kinh doanh. Tôi cũng là nhà kinh doanh... Khi việc ném bom chấm dứt, câu chuyện bắt đầu. Chúng ta sẽ xem các mặt hàng.[73]
Chúng tôi và nhân dân chúng tôi sẵn sàng nói chuyện với nhà cầm quyền Mĩ và nhân dân Mĩ. Nhưng với Johnson và Mc Namara thì hoặc là trải thảm đỏ hoặc đá đít ra ngoài cửa.[74]
Chúng tôi sẵn sàng đem hoa và nhạc tiễn họ và mọi thứ khác họ thích, nhưng ông biết đấy, tôi thích tiếng lóng của các ông: qu'ils foutent le camp! ("qu'ils foutent le camp" có nghĩa là "hãy cút đi")[
Đế quốc Mỹ chán rồi, nhưng rút ra như thế nào. Thua mà danh dự. Đó là điều Mỹ muốn![
Về Đầu Trang Go down
artemis!
::Tiên linh thần đảo::
::Tiên linh thần đảo::
artemis!


Tổng số bài gửi : 276
Join date : 27/01/2008
Age : 30

Danh nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Tăng tuyết Minh   Danh nhân Icon_minitimeSat Mar 01, 2008 6:12 pm

Xuất thân
Tăng Tuyết Minh sinh vào tháng 10 năm 1905 tại thành phố Quảng Châu, Trung Quốc. Bà quê ở huyện Mai tỉnh Quảng Đông, cha là Tăng Khai Hoa làm nghề buôn bán, mẹ bà là Lương thị, vợ kế của Tăng Khai Hoa. Người cha qua đời khi Tăng Tuyết Minh mới lên mười
Đầu năm 1923, bà học Cao đẳng tiểu học sau đó tốt nghiệp trường Hộ sinh Quảng Châu, ra làm nữ hộ sinh. Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc với bí danh là Lý Thụy từ Moskva đến Quảng Châu làm phiên dịch cho cố vấn Liên Xô Mikhail Markovich Borodin, thuộc Hội Lao Liên của Tôn Trung Sơn
Mùa hè năm 1926, qua sự mai mối của một trợ thủ đắc lực là Lâm Đức Thụ (một thanh niên cách mạng hăng hái có triển vọng, nhưng về sau đã từng bước phản bội, li khai hàng ngũ cách mạng Việt Nam), Nguyễn Ái Quốc gặp Tăng Tuyết Minh, ông rất có cảm tình với cô gái Quảng Châu có gương mặt trái xoan, da trắng, điềm đạm, đoan trang, thông minh này.
[sửa] Hôn nhân
Theo cuốn "Hồ Chí Minh với Trung Quốc" (Hu Zhiming Yu Zhongguo) xuất bản năm 1990 của tác giả Hoàng Tranh (Huang Zheng), nhà sử học, phó Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây thì tháng 10 năm 1926, Nguyễn Ái Quốc, khi đó lấy tên là Lý Thụy, tổ chức hôn lễ tại nhà hàng Thái Bình, với sự chứng kiến của Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu (vợ của Chu Ân Lai) và một bộ phận học viên khoá huấn luyện phụ vận. Đây cũng là địa điểm mà Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu tổ chức kết hôn trước đó một năm. Cuộc hôn nhân này ban đầu bị mẹ Tăng Tuyết Minh phản đối vì bà lo Nguyễn Ái Quốc hoạt động nay đây mai đó không ổn định, nhưng lại được Tăng Cẩm Tương, anh của Tăng Tuyết Minh, tán thành vì nhận xét Nguyễn Ái Quốc là người có học vấn, cẩn trọng và tâm huyết với sự nghiệp. Theo sử gia người Pháp Pierre Brocheux trong cuốn tiểu sử Ho Chi Minh: A Biography, một số đồng sự của Lý Thụy như Nguyễn Hải Thần và Lê Hồng Sơn cũng phản đối cuộc hôn nhân. Trong một lá thư cho các đồng sự, Lý Thụy đã giải thích lý do cưới Tăng Tuyết Minh là vì ông cần một phụ nữ để dạy ngôn ngữ và chăm lo nhà cửa.[1
Sử gia William J. Duiker trong cuốn tiểu sử Ho Chi Minh: A Life đã nhắc đến tin đồn rằng hai người đã có một người con gái; ông dẫn thông tin này từ cuốn Vision Accomplished? của tác giả Nguyễn Khắc Huyên.[
[sửa] Xa nhau mãi mãi
Ngày 12 tháng 4 năm 1927, sau khi Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh kết hôn đuợc nửa năm, Tưởng Giới Thạch phát động cuộc chính biến tại Thượng Hải. Nguyễn Ái Quốc phải chuyển đến Vũ Hán vì trụ sở của đoàn cố vấn Lao Liên chuyển đến đây. Tuy nhiên do tình thế lúc bấy giờ, sau khi đến Vũ Hán, Nguyễn Ái Quốc lại chuyển đến Thượng Hải, rồi đi sang Nga, vòng qua châu Âu rồi về Thái Lan..
Về phần mình, Tăng Tuyết Minh gia nhập Đoàn Thanh niên xã hội chủ nghĩa. Từ tháng 7 năm 1927 đến tháng 6 năm 1929, Tăng Tuyết Minh vào học tại trường Anh văn Kiêm Bá và trường Trung học nữ sinh Tân Á. Từ tháng 7 năm 1929 đến đầu năm 1930, Tăng Tuyết Minh rời Quảng Châu, làm nữ hộ sinh huyện Thuận Đức quê ngoạ
[sửa] T của Nguyễn Ái Quốc gửi Tăng Tuyết Minh
Thư gửi Tăng Tuyết MinhNguyễn Ái Quốc đã vài lần nhờ người chuyển thư cho Tăng Tuyết Minh nhưng không có kết quả. Khi ở Thái Lan, ông đã viết một lá thư bằng chữ Hán với nội dung như sau
Dữ muội tương biệt,
Chuyển thuấn niên dư,
Hoài niệm tình thâm,
Bất ngôn tự hiểu.
Tư nhân hồng tiện,
Dao ký thốn tiên,
Tỷ muội an tâm,
Thị ngã ngưỡng (hoặc sở) vọng.
Tinh thỉnh
Nhạc mẫu vạn phúc.
Chuyết huynh Thụy.
Dịch nghĩa: "Từ ngày chia tay với em, đã hơn một năm trôi qua. Nhớ thương khắc khoải, chẳng nói cũng hiểu. Nay mượn cánh hồng, gửi mấy dòng thư để em yên tâm, đó là điều anh mong mỏi, và cầu cho nhạc mẫu vạn phúc. Người anh vụng về, Thụy"
Bản dịch của N.H.Thành
Cùng em xa cách,
Đã hơn một năm,
Thương nhớ tình thâm,
Không nói cũng rõ.
Cánh hồng thuận gió,
Vắn tắt vài dòng,
Để em an lòng,
Ấy anh ngưỡng vọng.
Và xin kính chúc,
Nhạc mẫu vạn phúc.
Anh ngu vụng : Thụy
Bức thư này bị mật thám Đông Dương chặn được ngày 14 tháng 8 năm 1928, hiện được lưu trữ tại C.A.O.M. (Aix en Provence). Nguồn: Daniel Hémery, HO CHI MINH De L'Indochine au Vietnam, Gallimard, Paris 1990, tr.145
Theo Pierre Brocheux, nội dung của bức thư này đã phản lại lý do thực dụng mà ông đã dùng để giải thích cho các đồng sự về việc cưới Tăng Tuyết Minh[1]
Đầu tháng 5 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc lại viết một lá thư nữa từ Thượng Hải hẹn Tăng Tuyết Minh lên Thượng Hải để gặp nhau. Tiếc thay lá thư này cũng không đến được tay Tăng Tuyết Minh do cô đã rời địa chỉ ghi trong thư là trạm y tế của bác sĩ Dư Bác Văn ở thị trấn Lặc Lưu và người ta đã xem trộm rồi đốt đi. Mãi nửa năm sau Tăng Tuyết Minh mới biết chuyện.
Về Đầu Trang Go down
artemis!
::Tiên linh thần đảo::
::Tiên linh thần đảo::
artemis!


Tổng số bài gửi : 276
Join date : 27/01/2008
Age : 30

Danh nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Danh nhân   Danh nhân Icon_minitimeSat Mar 01, 2008 6:13 pm

Nhìn thấy chồng tại tòa án rồi qua ảnh

Tăng Tuyết Minh khi đã cao tuổi. Trên tường nhà có treo ảnh Hồ Chí MinhNgày 5 tháng 6 năm 1931 Nguyễn Ái Quốc bị các nhà cầm quyền Anh bắt sau khi trở lại Hương Cảng. Đến cuối năm 1931, nhà cầm quyền Anh ở Hương Cảng đem Nguyễn Ái Quốc ra xét xử, tuy nhiên Tăng Tuyết Minh chỉ có thể nhìn thấy ông từ rất xa, còn ông thì hoàn toàn không biết bà có mặt tại toà. Đây là lần sau cùng bà Tăng Tuyết Minh nhìn thấy Nguyễn Ái Quốc.

Theo bài "Hồ Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh", đã đăng trên tạp chí Đông Nam Á tung hoành (Dọc ngang Đông Nam Á), số tháng 11-2001 xuất bản tại Nam Ninh của Hoàng Tranh thì tháng 5 năm 1950 bà Tăng Tuyết Minh, nhìn thấy ảnh Hồ Chí Minh trên Nhân dân Nhật báo cùng với tiểu sử, bà tin chắc đó chính là chồng mình. Bà đã cố gắng liên lạc với ông qua đại sứ Hoàng Văn Hoan và tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng tất cả cố gắng của bà đều không thành. Hồ Chí Minh cũng từng thông qua Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu và Đào Chú, Bí thư Trung Nam cục dò tìm tung tích của Tăng Tuyết Minh nhưng không có kết quả.

Năm 1977 bà về hưu, sau 52 năm tận tuỵ với nghề nữ hộ sinh. Ngày 14 tháng 11 năm 1991, bà Tăng Tuyết Minh qua đời tại Quảng Châu, thọ 86 tuổi.
Về Đầu Trang Go down
artemis!
::Tiên linh thần đảo::
::Tiên linh thần đảo::
artemis!


Tổng số bài gửi : 276
Join date : 27/01/2008
Age : 30

Danh nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Bí mật những điếu xì gà của Thủ tướng Anh Winston Churchill   Danh nhân Icon_minitimeSat Mar 15, 2008 9:25 pm

Trong con mắt người dân xứ Ănglê, Thủ tướng Winston Churchill là một người đặc biệt bởi vì ông đã lãnh đạo nước Anh, góp phần cùng phe Đồng minh, chiến thắng phát xít trong chiến tranh thế giới thứ II và vì ông lúc nào cũng luôn xuất hiện với điếu xì gà cầm tay hoặc gắn trên môi.

Đã một thời, những điếu xì gà của Winston Churchill được coi là bí mật quốc gia và nhiều khi, cơ quan tình báo của nước này phải mở hẳn cả một chiến dịch "an ninh cho những điếu xì gà của Thủ tướng"!

Món quà quý từ bên kia đại dương

Ngày 27/3/1941, Chính phủ Cuba lúc ấy thông báo cho Đại sứ Vương quốc Anh George Ogilivie Forbes ở thủ đô La Habana: Ủy ban Công nghiệp thuốc lá quốc gia Cuba quyết định tặng ngài Thủ tướng Anh Winston Churchill một món quà đặc biệt vì “đã có công bảo vệ nền dân chủ”.

Đó là một thùng bằng gỗ quý đỏ, cao 5 foot (đơn vị đo chiều dài Anh: 1 foot = 30,5 cm). Bên trong là 2.400 điếu xì gà La Habana (loại xì gà ngon nhất thế giới và chỉ có ở Cuba). Lập tức, Đại sứ Forbes điện ngay về London báo tin. Theo ý kiến của riêng ngài Đại sứ “không nên từ chối một món quà đắt giá và quý như vậy”.

Ngày 8/4/1941, tại buổi lễ bàn giao trang trọng ở La Habana, Đại sứ Ogilivie Forbes được tận mắt chứng kiến món quà hảo hạng: Bên ngoài chiếc thùng quà gỗ quý được khảm những bức tranh đẹp tuyệt vời về phong cảnh thiên nhiên vùng biển nhiệt đới Caribe.

Bên trong thùng là 4 cái tráp gỗ rất đẹp đựng các loại xì gà nổi tiếng thời bấy giờ: H.Upmann, Por Larranaga, Ramon Allones, Romeo y Julieta, El Rey del Mundo và Hoyo Monterrey!

Thủ tướng Churchill biết rõ và rất chuộng xì gà Cuba. Trong những năm tháng chiến tranh, xì gà giúp ông Churchill giải tỏa những căng thẳng, giữ ổn định và cân bằng tâm lý khi giải quyết những vấn đề phức tạp.

Đối với ông, xì gà cần và quan trọng không kém gì đồ ăn, nước uống. Xì gà luôn là thứ “nhiên liệu” ông cần phải nạp trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định chiến lược nào. Kể từ đấy, hàng ngày, hàng giờ, Thủ tướng Anh ngóng chờ tàu chở quà cặp bến!


Thủ tướng Anh Winston Churchill với điếu xì gà trên môi


Chiến dịch “An ninh cho những điếu xì gà của Thủ tướng”

Biết rõ tầm quan trọng của những điếu xì gà đối với Thủ tướng nên Tình báo Anh rất quan tâm tới an ninh cho thứ đồ hút xa xỉ này. Trước đó, Đại sứ Anh tại La Habana đã báo về: Cuba đã bắt giữ một loạt kiều dân nước ngoài vừa nhập cư trái phép vào nước này.

Trong số đó có nhiều người châu Âu. Không loại trừ khả năng gián điệp Đức Quốc xã ranh ma và xảo quyệt sẽ tận dụng cơ hội này để mưu sát Thủ tướng Winston Churchill.

Sự háo hức của Churchill đã bị dội một gáo nước lạnh khi Bí thư riêng của Thủ tướng là John Colville thông báo: Scotland Yard đã có lời chính thức khuyên Thủ tướng: “Tạm thời, chưa nên hút xì gà quà tặng”. Rất có thể, trong quá trình sản xuất, một số chất độc hại đã được người Đức bí mật đưa vào trong các điếu thuốc.

Thời chiến tranh, mọi khả năng đều có thể xảy ra. Các thành viên Chính phủ đều tán thành kiến nghị đó của Cơ quan an ninh. Nhưng lúc ấy, chưa ai biết làm cách nào để có thể ngăn Thủ tướng không đụng đến xì gà. Churchill là người không thích chờ đợi.

Chuyến tàu biển thuê của Hội Chữ thập đỏ quốc tế chở quà tặng vượt Đại Tây Dương càng đến gần nước Anh bao nhiêu thì tâm trạng bồn chồn, lo lắng của các thành viên chính phủ và nhân viên bảo vệ càng tăng lên bấy nhiêu.

Nghĩ mãi thì cuối cùng, Văn phòng Thủ tướng và Tình báo Anh cũng tìm ra một giải pháp tình thế: Không cho Thủ tướng biết ngày tàu chở quà cập cảng. Xử lý xong, rồi sẽ liệu báo cáo sau!

Liên tục hàng tháng trời, Văn phòng Thủ tướng, MI-5 (Cục Phản gián Tình báo Anh), Đặc phái viên Hoàng gia và các chuyên gia chất độc hàng đầu của nước Anh tập trung vào việc xét nghiệm.

Cái khó là xì gà thì rất nhiều và không phải cái nào cũng được bóc ra xem (bởi bóc xong là vứt đi, không sử dụng lại được). Họ đành lấy ngẫu nhiên 47 điếu xì gà của từng tráp quà, thực hiện việc xét nghiệm rất thận trọng cả về sinh học và hóa học.

Cuối cùng, Ủy ban kiểm tra kết luận: “Nồng độ các chất độc hại và vi khuẩn trong xì gà quà tặng từ Cuba không vượt quá định mức quy định!".

Cuộc họp căng thẳng kết thúc có phần nhờ... xì gà!

Chiều ngày 19/9/1941, tại ngôi nhà số 10 phố Downing đã diễn ra một cuộc họp rất quan trọng. Tại cuộc họp này, Hội đồng Quốc phòng Anh thảo luận một vấn đề góp phần làm thay đổi cục diện chiến tranh lúc ấy: Có nên giúp Liên Xô chống lại phát xít Đức hay không?

Những người đứng đầu phái quân sự là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Tổng Tham mưu trưởng quân đội cho rằng: Bất kể nhiều hay ít thì việc giúp đỡ đó sẽ làm suy yếu sức chiến đấu và khả năng phòng thủ của quân đội Anh.

Trái với suy nghĩ của nhiều người, Thủ tướng Churchill lại cho rằng “London cần loại bỏ khả năng từ chối đề nghị được giúp đỡ của Moskva!”. Về sau, quyết định ấy đã tỏ ra là đúng đắn nhưng lúc đó, các thành viên Hội đồng Quốc phòng đã tranh luận rất lâu và căng thẳng.

Kẻ phản đối. Người ủng hộ. Không bên nào nhượng bộ bên nào. Cuộc họp lâm vào thế bế tắc và tưởng như sẽ đi vào ngõ cụt.

Trong lúc gay cấn nhất thì Churchill lại đột ngột đưa ra một quyết định bất ngờ: “Dừng tranh luận. Nghỉ 2 tiếng để ăn tối. Sau đó sẽ tiếp tục... họp suốt đêm!”.

Và Thủ tướng đã đi ăn tối cùng với vợ (được gọi là quý bà Klemmy). Sau bữa tối, Thủ tướng đưa toàn bộ các thành viên Hội đồng Quốc phòng vào phòng bên trái dinh Thủ tướng để giới thiệu bộ sưu tập xì gà Cuba hảo hạng mới của mình.

Huân tước Balfur (khi ấy là Thứ trưởng Không quân) nhớ lại: “Hướng về phía các bộ trưởng, Thủ tướng trịnh trọng nói: “Thưa các quý ông! Bây giờ tôi sẽ tự mình làm một thí nghiệm được coi là nguy hiểm: Thử những điếu xì gà này.

Mặc dù bên an ninh đã kiểm tra kỹ càng, song biết đâu đấy, vẫn có thể bỏ sót. Bởi vậy, kết quả thử nghiệm có thể sẽ làm quý ngài hài lòng, nhưng có thể sẽ là ngược lại! Sau đó, tôi muốn chiêu đãi các ngài thứ xì gà thượng hạng này!”.
Ngừng một chút, Thủ tướng tiếp tục với chất giọng của một nghệ sĩ kịch: “Mỗi điếu xì gà hoàn toàn có thể chứa độc chất nào đó”. Không loại trừ khả năng chỉ vài ngày sau khi hút xì gà, tôi sẽ phải nằm trong cỗ quan tài đến tu viện kèm theo hàng sâu những lời nguyền rủa!”... Sau đấy, các thành viên Hội đồng Quốc phòng quay trở lại phòng họp lớn. Họ khoan khoái thưởng thức những điếu xì gà La Habana do Thủ tướng mời.
Huân tước Balfur tiếp tục kể: “Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ, Hội đồng Quốc phòng Anh đã thảo luận xong tất cả các vấn đề phức tạp mà trước đấy cứ phải tranh luận mãi, căng thẳng và rất gay go.
Việc giúp đỡ nước Nga cũng đã được quyết định một cách xuôi chèo, mát mái. Thậm chí còn rất chóng vánh và triệt để. Tất cả các thành viên Hội đồng Quốc phòng đều... sống và mạnh khỏe cả!”
“Bị vong lục về xì gà!”
Lịch sử những điếu xì gà của Thủ tướng Anh Churchill đến đấy vẫn chưa dừng lại. Cuối tháng 10/1941, những người hâm mộ Churchill từ Brazil lại gửi tặng Thủ tướng Anh một thùng xì gà nữa.
Để bảo đảm an toàn, đỡ phiền hà, vất vả khi kiểm tra an ninh, đặc phái viên của Hoàng gia Rotsilda đề nghị: Đem xì gà quà tặng từ Brazil đổi lấy xì gà London cho Thủ tướng
Về sau, quà tặng xì gà cho Thủ tướng Anh Winston Churchill nhiều đến nỗi, Chính phủ Anh đã phải ra một “bị vong lục về xì gà”. Văn bản nhà nước này quy định rõ:
1. Nếu quà tặng mang nhãn hiệu quảng cáo đáng tin cậy và qua kiểm định, xì gà được đánh giá đúng là có chất lượng cao, thì Thủ tướng được nhận quà (và chính Thủ tướng phải trả thuế Hải quan khi quà tặng gửi từ nước ngoài).
2. Nếu quà tặng đủ độ tin cậy nhưng qua kiểm định phát hiện thấy xì gà không chất lượng thì chuyển đến bệnh viện để xử lý (trường hợp này, Thủ tướng không phải nộp thuế Hải quan).
3. Khi quà tặng đúng như quảng cáo nhưng có mục đích khác thì Thủ tướng không nhận quà (một số trường hợp ngoại lệ, quà tặng có thể không trả lại người gửi mà đưa vào bệnh viện xử lý)
Cho đến tận bây giờ, hơn 60 năm sau, bí mật về những điếu xì gà của Thủ tướng Anh Winston Churchill mới vừa được công bố!
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Danh nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Danh nhân   Danh nhân Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Danh nhân
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
 :: Thư quán :: Kiến thức mem-
Chuyển đến